Cũng giống như rất nhiều nước Châu Á khác, Việt Nam là một quốc gia không có truyền thống chăn nuôi bò sữa. Tuy nhiên, do những thay đổi trong thói quen ăn uống, mức tiêu thụ các sản phẩm từ sữa đã tăng gấp 20 lần trong vòng mười lăm năm nay. Năm 2006, mức tiêu thụ các sản phẩm từ sữa đạt 9 lít/người/năm và nếu cứ với nhịp độ tăng như hiện nay, mức tiêu thụ sẽ còn tăng mạnh trong những năm tới.
Đàn bò sữa với 100 000 đầu con sản xuất được khoảng 235 000 tấn sữa/năm (2007) chỉ đáp ứng được khoảng 20% tổng nhu cầu tiêu thụ trong nước và như vậy, Việt Nam buộc phải nhập khẩu sữa từ nước ngoài. Do đó, chính phủ Việt Nam đã quyết định thực hiện chương trình sữa quốc gia nhằm phát triển ngành hàng sữa.
Tuy nhiên, việc phát triển ngành hàng sữa gặp một số các khó khăn : thiếu đất để trồng cỏ (khó khăn về không gian) ; thiếu cỏ chất lượng để đảm bảo cân bằng các khẩu phần ăn (khó khăn về thức ăn) ; thiếu kinh nghiệm và thiếu các chương trình tập huấn (khó khăn về kỹ thuật) cũng như thiếu bác sỹ thú y (khó khăn về y tế); thiếu giống bò có khả năng cho sữa cao (khó khăn về di truyền); và ngành hàng sữa không được tổ chức chặt chẽ(khó khăn về kinh tế và xã hội).
Như vậy, nghành hàng sữa phải đối mặt với nhiều thách thức. Chúng ta cần phối hợp nghiên cứu liên ngành để tìm được giải pháp hợp lí cho các vấn đề đặt ra.
Prise phát triển các nghiên cứu về việc áp dụng các quy trình kĩ thuật tiến bộ nhằm:
Prise tham gia dự án Duras « Sử dụng hiểu biết của người dân địa phương trong chăn nuôi bò sữa tại các vùng trung du Đông-Nam châu Á», do FSP, thuộc Bộ Ngoại Giao Pháp, tài trợ.
Mục tiêu: áp dụng các phương pháp sáng tạo và hiểu biết của người dân địa phương trong quản lý nguồn thức ăn cho bò nhằm xác định các hệ thống chăn nuôi phù hợp nhất với các vùng trung du.
Prise tham gia dự án TransADD, phối hợp với Inra (Pháp), do ANR (Pháp) tài trợ.
Mục tiêu: xây dựng một mô hình chung có tính đến yếu tố tổ chức không gian, sử dụng đất và những thay đổi do người dân dự kiến dựa trên mục tiêu họ xác định.
Mục tiêu: xây dựng các thí nghiệm cỏ sử dụng các giống cỏ ôn đới và nhiệt đới để giải quyết vấn đề thiếu cỏ trong mùa đông và để thâm canh và cải thiện chất lượng cỏ xanh vào mùa hè.
Mục tiêu: nghiên cứu các cách thực hành và những hiểu biết tiên tiến về chăn nuôi tại địa phương trong việc quản lí nguồn cỏ chăn nuôi để xác định được hệ thống chăn nuôi thích ứng nhất đối với vùng trung du.
Mục tiêu: sử dụng quang phổ cận hồng ngoại để đặc điểm hoá chất lượng các nguồn thức ăn và sử dụng tiêu hoá chúng qua bò sữa (SPIR). Xây dựng cơ sở dữ liệu và xây dựng hệ thống (Việt nam, Réunion, Montpellier).